Từ Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh, đi theo đường Pasteus đến Nguyễn Đình Chiểu, quẹo trái đến đường Cách Mạng Tháng Tám rẽ phải đến Ngã Tư Bảy Hiền, đi tiếp đường Trường Chinh đến Bưu điện Bà Quẹo (ngã tư Trường Chinh - Tân Kỳ Tân Qúy), rẽ trái theo đường Tân Kỳ Tân Qúy, khoảng 1000m gặp cổng đình nằm bên trái.
Cổng đình Tân Sơn Nhì
Địa danh xã Tân Sơn Nhì xưa thuộc Tổng Dương Hòa Thượng, huyện Tân Bình. Vùng đất này trước đây có một số ít dân sinh sống còn xung quanh là những cánh đồng bưng bạt ngàn với nhiều cây nấm và lát, quanh năm ngập nước phèn, người dân sống chủ yếu nhờ bắt cá, săn chim trời. Thời ấy cánh đồng này có tên là đồng bưng tầm lạc, rừng nước mêng mông với nhiều thú dữ nối tiếp lên tận Cao Miên.
Đầu xuân Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam thiết lập bộ công quyền đặt nền móng pháp trị và xác định cương thổ quốc gia. Hai đơn vị hành chính đầu tiên ở Nam bộ được thành lập là huyện Phước Long và huyện Tân Bình dưới quyền quản lý của phủ Gia Định, Nguyễn Hữu Cảnh chiêu mộ dân chủ yếu từ Bố Chánh (nay là Quảng Bình) trở vào Nam, rồi thiết lập xã và thôn, phường ấp chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế tô dụng, làm sổ dinh điền.
Sau khi khai khẩn đất đai bắt đầu cuộc sống định canh, định cư các thế hệ nối tiếp nhau được sinh ra và lớn lên, dân cư ngày một đông hơn, nhiều ngôi nhà chụm lại thành một xóm nhỏ và các cụm dân cư bắt đầu hình thành quần tụ chủ yếu theo từng tộc họ, tìm hiểu các gia phả của các hộ dân sống lâu đời ở Tân Sơn Nhì cho thấy những người dân đầu tiên đến khai thiên lập địa định cư tại đây chủ yếu có nguồn gốc từ các tỉnh miền Trung.
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, sau khi chiếm được Sài Gòn - Gia Định, năm 1861 thực dân Pháp cho thiết lập một bộ máy cai trị, huyện Tân Bình được đổi lại thành phủ Tân Bình thuộc tỉnh Gia Định. Đến năm 1900, vùng đất Tân Bình sáp nhập với quận Gò Vấp thuộc Tổng Dương Hòa Thượng gồm 9 xã, trong đó xã Tân Sơn Nhì. Đến năm 1940, Tổng Dương Hòa Thượng có thay đổi một số xã theo Nghị định số 6406-GP do toàn quyền Đông dương ký ngày 1 tháng 1 năm 1940, từ 9 xã còn lại 5 xã là: Phú Nhuận, Bình Hưng Hòa, Phú Thọ Hòa, Tân Sơn Hòa và Tân Sơn Nhì.
Đến tháng 3 năm 1945 Tổng Dương hòa thượng được tách ra khỏi quận Gò Vấp và được nâng lên thành quận Tân Bình, nhưng đến thời Ngô Đình Diệm quận Tân Bình mới chính thức được thành lập theo Sắc lệnh 1959 của chính quyền Diệm. Quận Tân Bình từ đó thuộc tỉnh Gia Định gồm 6 xã, trong đó có xã Tân Sơn Nhì gồm các ấp: Sơn Cang, Tân Phú, Tây Thạnh, Tân Qúy, Tân Thới, Sơn Kỳ (sau đó tách ra làm Sơn Kỳ A và Sơn Kỳ B) trực thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay là các phường 12,13,14,15 quận Tân Bình và các phường Tây Thạnh, Sơn Kỳ, Tân Qúy, Tân Thành quận Tân Phú).
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, các đơn vị hành chính vẫn được giữ nguyên. Đến ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa IV nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra Nghị quyết chính thức đặt tên Thành phố Sài Gòn - Gia Định thành thành phố Hồ Chí Minh, cùng với sự sắp xếp lại địa giới hành chánh của thành phố, các quận huyện cũng được điều chỉnh, quận Tân Bình đã bàn giao hai xã Bình Hưng Hòa và Vĩnh Lộc cho huyện Bình Chánh, bỏ cấp ấp và chia 4 xã còn lại thành 26 phường, các phường mới mang tên từ 1 đến 26, địa danh xã Tân Sơn Nhì không còn nữa.
Thực hiện Nghị định 130/2003/NĐ - CP ngày 5 tháng 11 năm 2003 của chính phủ, sau khi được chia tách, sáp nhập và điều chỉnh địa giới hành chính, địa danh Tân Sơn Nhì lại được đặt tên cho một phường thuộc quận Tân Phú và một tên đường thuộc phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
Qua bao biến cố lịch sử, nhân dân Tân Sơn Nhì với truyền thống yêu nước, đoàn kết, vượt qua khó khăn, gian khổ đã tích cực tham gia các phong trào yêu nước và cách mạng, đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhiều gia đình ở Tân Sơn Nhì là cơ sở nuôi dấu cán bộ, bộ đội và du kích về hoạt động tại địa phương, có công với cách mạng. Phường Tân Sơn Nhì được Đảng và Nhà nước phong tặng anh hùng lực lượng võ trang nhân dân tại lễ kỹ niệm 65 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2 tháng 9 năm 2010.
Đình Tân Sơn Nhì được xây dựng sau khi xã Tân Sơn Nhì được hình thành không lâu, theo các vị bô lão xã Tân Sơn Nhì được ghi vào sổ bộ năm 1805 thì sau đó khoảng thời gian không lâu gọi là Đình Tân Sơn Nhì, năm 1852, đình được sắc phong của vua Tự Đức.
Đình Tân Sơn Nhì cũng giống như bao ngôi đình làng Nam bộ khác, vừa là nơi tín ngưỡng dân gian (thờ Thần hoàng bổn cảnh), vừa là nơi sinh hoạt văn hóa của nhân dân trong thôn, làng, xã. Những yếu tố chung này đã gắn kết mọi người lại với nhau cùng xây dựng quê hương đất nước ngày càng tốt đẹp.
Đình Tân Sơn Nhì trước đây nằm trên trục lộ chính từ Tây Ninh xuống Sài Gòn lúc đó gọi là đường Thiên Lý, sau này được đổi thành đường Cách Mạng Tháng Tám và hiện nay là đường Trường Chinh nằm gần ngã ba Bà Quẹo, nên Đình cũng có tên gọi là Đình Bà Quẹo.
Do đình nằm trên trục lộ chính cho nên thương lái buôn đều thường vào cúng bái, xin phù hộ may mắn. Sau đó họ tự nguyện đóng góp tiền của, vật chất, hiện vật thờ cúng. Dần dần, đình được tu bổ ngày càng khang trang, với đầy đủ đồ thờ cúng, kiến trúc các hạng mục công trình như các đình làng ở Nam bộ.
Năm 1945, thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, không cho giặc Pháp chiếm đình làm đồn bót, Ban Trị sự đã đốt đình, đưa tất cả đồ thờ cúng về tại địa điểm hiện nay xây cất với vật liệu nhẹ, thô sơ để tiếp tục thờ phụng. Đến đầu năm 1965, đình được tu bổ toàn bộ. Đồng thời, hàng năm bá tánh đóng góp hoàn thiện dần dần các công trình xây dựng như ngày nay.
Như vậy, cho đến nay đình Tân Sơn Nhì đã tồn tại trên 200 năm. Suốt khoảng thời gian đó, Đình Tân Sơn Nhì luôn là nơi người dân thực hiện các nghi lễ truyền thống dân gian, cầu Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa; nơi người dân hội họp, trao đổi công việc làng xã. Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đình được xem là cái nôi cách mạng của xã Tân Sơn Nhì: nơi kết nối người dân đoàn kết, đóng góp vật chất, che chở, nuôi dấu cán bộ, bộ đội và du kích về hoạt động tại địa phương, thể hiện tinh thần yêu nước cách mạng sâu sắc.
Ngày nay, đình còn là nơi để cho nhân dân thờ cúng nhằm tôn vinh và tưởng nhớ, các bậc tiền hiền các anh hùng liệt sĩ hy sinh vì sự nghiệp cách mạng theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người Việt. Là nơi duy trì các lễ hội dân gian truyền thống tôn nghiêm, là nơi đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân trong địa bàn. Là nơi học sinh và các đoàn thể trên địa bàn đến vui chơi, học tập, sinh hoạt văn hóa.
Sự kiện lịch sử liên quan đến đình Tân Sơn Nhì trước khi có Đảng (1930): Đầu năm 1859, thực dân Pháp đem quân vào đánh Bến Nghé (Sài Gòn - Gia Định). Đến ngày 25 tháng 2 năm 1861 thì cả Sài Gòn rơi vào tay giặc và phong trào đấu tranh chống xâm lược của nhân dân đã phát triển mạnh mẽ diễn ra ở khắp nơi. Nhân dân đã gương cao ngọn cờ kháng chiến “thề nguyền ra sức đánh Tây”, tự nguyện đứng vào hàng ngũ của các sỹ phu yêu nước lãnh đạo nhân dân chống thực dân Pháp. Tiêu biểu tại Tân Sơn Nhì là cuộc khởi nghĩa của ông Nguyễn Ảnh Thủ - người xã Tân Sơn Nhì, một nông dân xuất thân từ gia đình có truyền thống yêu nước, ông tham gia nghĩa quân chống Pháp bị giặc bắt và kết án 5 năm tù (1863 - 1867). Sau khi ra tù ông về làng bí mật lấy đình Tân Sơn Nhì làm nơi triệu tập nghĩa quân chờ thời cơ khởi nghĩa. Ngày 15 tháng 1 năm 1871, ông lãnh đạo nghĩa quân tấn công vào đồn Thuận Kiều, giết một số lính Pháp. Tên đồn trưởng và hai lính đang cố thủ bên trong, Nguyễn Ảnh Thủ xông vào bắt và giết tên đồn trưởng nhưng ông lại bị hai lính Pháp bắn chết. Ông hi sinh anh dũng và đã trở thành tấm gương cho hậu thế noi theo.
Ngày 9 tháng 2 năm 1885, dưới sự lãnh đạo của ông Phan Công Hớn và Nguyễn Văn Bường, cùng với nhân dân Mười tám thôn vườn trầu (Bà Điểm), nhân dân xã Tân Sơn Nhì và các vùng phụ cận tham gia khởi nghĩa. Đông đảo người dân xã Tân Sơn Nhì tập trung tại đình Tân Sơn Nhì, rồi kéo đi hỗ trợ quân khởi nghĩa đánh chiếm quận lỵ Bình Long (Hóc Môn) thành công và trừng trị tên Đốc phủ xứ Trần Tử Ca khét tiếng tàn ác.
Thời gian này, tại xã Tân Sơn Nhì thực dân Pháp cho đóng nhiều đồn bót như bót Bà Quẹo, nhà làng tề xã Tân Sơn Nhì, nhằm đàn áp phong trào yêu nước của nhân dân ta. Nhưng nhân dân vùng Tân Sơn Nhì vẫn tích cực tham gia phong trào kháng chiến của các sỹ phu yêu nước lãnh đạo, tiêu biểu là phong trào Thiên Địa Hội do Phan Xích Long lãnh đạo, phong trào hội kín của Nguyễn An Ninh, trong đó, nhân dân Tân Sơn Nhì và các vùng phụ cận đã tập hợp tại Đình Tân Sơn Nhì tham gia đánh khám lớn Sài Gòn đêm 14 rạng 15 tháng 4 năm 1916.
Năm 1926 khi cụ Phan Chu Trinh mất, một cuộc biểu dương lực lượng dưới hình thức tổ chức tang lễ diễn ra tại Sài Gòn, có hàng trăm người dân Tân Sơn Nhì ở các ấp tập trung về đình Tân Sơn Nhì rồi kéo về Sài Gòn tham gia lễ tang cụ Phan Chu Trinh.
Vì vậy, đình Tân Sơn Nhì trở thành nơi tập hợp lực lượng cách mạng, có tác động sâu sắc đến việc tuyên truyền, giáo dục và phát huy truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân, là mảnh đất tốt cho các hạt nhân lãnh đạo của Đảng hoạt động, xây dựng và phát triển phong trào giải phóng dân tộc sâu rộng tại đại phương.
Sự kiện lịch sử liên quan đình Tân Sơn Nhì trong đấu tranh cách mạng từ khi có Đảng (3-2-1930): Năm 1930, chi bộ xã Tân Sơn Nhì được thành lập do đồng chí Nguyễn Văn Săng (Tư Săng) làm Bí thư, cũng là chi bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu tiên được thành lập tại vùng Tân Bình, sự ra đời của chi bộ xã Tân Sơn Nhì đã thổi vào phong trào cách mạng tại địa phương một luồng sinh khí mới. Phong trào cách mạng ở xã Tân Sơn Nhì phát triển mạnh mẽ, và từ đây đình Tân Sơn Nhì trở thành cơ sở của chi bộ Đảng. Chi bộ đã sử dụng đình làm nơi tập hợp quần chúng, tổ chức tuyên truyền, xây dựng lực lượng, và là điểm xuất phát cho các cuộc biểu tình, đấu tranh chống giặc Pháp do hai đồng chí Nguyễn Văn Săng và đồng chí Nguyễn Văn Giáp (Hai Giáp) lãnh đạo.
Đồng chí Nguyễn Văn Săng (Tư Săng) Bí thư Chi bộ đầu đầu tiên xã Tân Sơn Nhì năm 1930
Vào ngày 4 tháng 6 năm 1930, tại Cầu Xéo (xã Tân Sơn Nhì) đồng chí Tư Trí và Ba Mạ đã lãnh đạo đồng bào đi biểu tình với cờ, băng khẩu hiệu “Giảm thuế. Giảm tô”, “Đả đảo thực dân Pháp”, đoàn biểu tình hô vang khẩu hiệu, đồng thời nổi trống, mõ, tù và trên đường đi. Chính quyền thực dân địa phương phái các tên tay sai Cả Ngàn, Quản Niêm dẫn lính đến đàn áp, đoàn biểu tình đã đánh nhau với bọn lính, vì không có khí giới nên địch đã bắt 12 người trong đoàn biểu tình.
Tháng 10 năm 1930, trên 1000 người biểu tình đòi “Giảm tô, giảm thuế cho nông dân ”, “Đòi tăng lương, giảm giờ làm cho công nhân”. Đoàn biểu tình diễu hành từ Gò Dầu (xã Tân Sơn Nhì) tập trung tại đình Tân Sơn Nhì (Bà Quẹo) biểu dương lực lượng qua bót Bà Quẹo, hô vang các khẩu hiệu “Đả đảo thực dân Pháp”, “Đảng cộng sản Đông Dương muôn năm”. Trước khí thế của quần chúng thực dân Pháp và tay sai buộc phải chấp nhận yêu sách của nhân dân, giảm thuế Thân từ 7 đồng xuống 4 đồng.
Đình Tân Sơn Nhì năm xưa
Đình Tân Sơn Nhì trở thành nơi tập trung lực lượng, là điểm xuất phát quần chúng đi biểu tình và là nơi thường xuyên tổ chức các cuộc mít tinh, tập trung hàng trăm người để nghe các đồng chí Tư Săng, đồng chí Trọng và nhiều đồng chí khác diễn thuyết, tuyên truyền đường lối cánh mạng của Đảng, góp phần to lớn giữ vững và phát triển phong trào cách mạng tại Tân Sơn Nhì.
Từ năm 1936 – 1939, tại xã Tân Sơn Nhì thành lập nhiều tổ chức hội như: Hội Âm Công, Tương Tế, Ái Hữu… Các Hội đều được tổ chức tại đình Tân Sơn Nhì, trên danh nghĩa là tổ chức tương thân, tương ái lúc hoạn nạn, khó khăn nhưng thực chất là những tổ chức của quần chúng yêu nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là chi bộ xã Tân Sơn Nhì. Tại đình Tân Sơn Nhì, Chi bộ đã tổ chức nhiều các cuộc mít tinh, diễn thuyết, biểu tình nhằm tuyên truyền đường lối cách mạng cuả Đảng, đấu tranh đòi dân sinh, đòi quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, đại xá chính trị phạm, giảm sưu thuế, chống bắt lính…
Năm 1940, phong trào đấu tranh của nhân dân Tân Sơn Nhì tiếp tục nổ ra sôi nổi, đình Tân Sơn Nhì là nơi tập hợp quần chúng nhân dân hội họp, luyện tập, chuẩn bị cho cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ. Tại Đình Tân Sơn Nhì, lúc 0h đêm 22 tháng 11 năm 1940 rạng sáng 23 tháng 11 năm 1940, Ủy ban khởi nghĩa đặt tại nhà bà Tư Nhục (ấp Tân Phú) do các đồng chí Tư Săng, Hai Giáp, Năm Tiễng và Huỳnh Văn Một trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa, đã sử dụng đình Tân Sơn Nhì làm nơi tập hợp quần chúng với khoảng 1000 người, được võ trang giáo mác, gậy gộc, tầm vong vót nhọn tiến đánh hạ 4 đồn Bà Quẹo, Phú Thọ Hòa, Bình Hưng Hòa, Vĩnh Lộc. Sau cuộc khởi nghĩa thực dân Pháp điên cuồng khủng bố trắng, chúng thẳng tay đàn áp, bắt bớ cán bộ cách mạng, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Săng (Xứ Ủy viên) bị chúng đày ra Côn Đảo, đồng chí Nguyễn Văn Giáp (Bí thư tỉnh Ủy Gia Định) hi sinh ở bót Catinal trong một cuộc đấu tranh tuyệt thực năm 1942.
Cuộc nổi dậy của nhân dân vùng Tân Bình và xã Tân Sơn Nhì trong cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ tuy không giành được thắng lợi nhưng đã thể hiện được tinh thần chiến đấu vô cùng dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do, là bước tập dược cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách Mạng Tháng Tám.
Sau cuộc khởi nghĩa thực dân Pháp điên cuồng đàn áp, phong trào cách mạng ở vùng Tân Bình nói chung và Tân Sơn Nhì nói riêng tạm lắng xuống. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là tập trung xây dựng lực lượng, củng cố lại cơ sở cách mạng, từng bước vận động quần chúng tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh. Năm 1942 tại xã Tân Sơn Nhì, mặt trận Việt Minh do đồng chí Nguyễn Văn Tượng lãnh đạo, Đình Tân Sơn Nhì là nơi diễn ra sự kiện thành lập hội Nông dân cứu quốc, hội Phụ nữ cứu quốc… cũng là nơi tập trung quần chúng để tuyên truyền về chủ trương, chính sách của mặt trận Việt Minh.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ xã Tân Sơn Nhì, đêm ngày 24 tháng 8 năm 1945 rạng sáng ngày 25 tháng 8 năm 1945 quần chúng tập hợp tại đình Tân Sơn Nhì nổi trống, mõ tổ chức xuống đường biểu tình, khởi nghĩa giành lấy chính quyền về tay nhân dân, lực lượng biểu tình có đội Thanh niên Tiền phong vũ trang tự vệ được trang bị giáo mác, gậy gộc, tầm vông vạt nhọn đánh chiếm nhà Tề làng, bót Bà Quẹo, tiêu diệt các ổ kháng cự của địch và những tay sai gian ác ngoan cố. Đến trưa ngày 25 tháng 8 năm 1945 cờ đỏ sao vàng tung bay khắp vùng Bà Quẹo. Tại đình Tân Sơn Nhì, Ủy ban kháng chiến hành chính xã được thành lập do đồng chí Võ Thành Trang (Bảy Trắc) làm Chủ tịch. Chi bộ xã Tân Sơn Nhì còn dùng Chánh điện làm nơi hội họp, bàn bạc công tác, chuẩn bị lực lượng trong những ngày khởi nghĩa giành lấy chính quyền trong Cách mạng tháng 8 năm 1945. Ngày 25 tháng 9 năm 1945, đông đảo nhân dân kéo về Quảng trường Nôrôđôm (cạnh nhà thờ Đức Bà – nay là đường Lê Duẩn) tham gia mít tinh.
Đồng chí Võ Thành Trang (Bảy Trắc) Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã Tân Sơn Nhì năm 1945
Thực hiện tiêu thổ kháng chiến, Hội đình đã tập hợp hội viên tháo giỡ những hiện vật thờ cúng trong đình, rồi đốt cháy ngôi Đình, không để bọn giặc Pháp sử dụng làm nơi đóng quân, chứa lương thực và vận động hội viên đóng góp ủng hộ kháng chiến.
Hưởng ứng lời kêu gọi Nam bộ kháng chiến, chi bộ xã Tân Sơn Nhì có chủ trương phải bám đất giữ làng, quyết chống giặc bảo vệ đồng bào, cùng đồng bào tiến hành chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, một lần nữa Đình Tân Sơn Nhì được lực lượng vũ trang sử dụng làm nơi tập hợp lực lượng, luyện tập quân sự để tiến đánh các nơi và đẩy lùi các đợt càn quét của giặc Pháp như: Ngày 14 tháng 6 năm 1946 quân Pháp mở cuộc càn quét lớn dọc theo xã Tân Sơn Nhì liền bị du kích xã phối hợp với chi đội 12 do đồng chí Tư Thượt, Nguyễn Văn Hâm, Nguyễn Văn Bội chỉ huy chặn đánh, diệt nhiều tên địch. Ngày 30 tháng 10 năm 1946, đội du kích thiếu niên do đồng chí Huỳnh Kim Sáng tổ chức đột nhập đánh bót Bà Quẹo, diệt nhiều tên địch thu một súng Thomson và nhiều đạn đại liên. Đêm 16 tháng 12 năm 1946, Chi đội 12 do đồng chí Nguyễn Thượt, đồng chí Nguyễn Văn Hâm và đồng chí Nguyễn Bá Bội chỉ huy phối hợp với lực lượng du kích xã Tân Sơn Nhì và các lực lượng võ trang khác đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất, giặc Pháp đem quân phản kích, ta và địch chiến đấu ác liệt suốt một đoạn đường từ ngã tư Bảy Hiền đến ngã ba Bà Quẹo, đến xóm Gò Dầu, diệt nhiều sĩ quan và binh lính Pháp.
Cuối tháng 12 năm 1946, thực hiện lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Trung ương Đảng và Hồ Chủ Tịch, đình Tân Sơn Nhì được Chi bộ xã chọn là điểm tòng quân.
Năm 1950, lực lượng Liên quân Chi đội 12 phối hợp với đội dân quân xã do đồng chí Huỳnh Công Thủ (Tư Nỏn) trưởng ban quân sự xã đánh địch bằng cách dùng chướng ngại vật chặn đường giao thông của địch, phối hợp với ông Mai Văn Như, Huỳnh Văn Khởi và Hội đình Tân Sơn Nhì vận động nhân dân trồng tre tạo thành địa hình, địa vật liên xã Phú Thọ Hòa, Bình Hưng Hòa đào hầm bí mật đánh du kích với Pháp.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, đình Tân Sơn Nhì là cơ sở cách mạng nuôi giấu cán bộ cấp Ủy xã Tân Sơn Nhì như các đồng chí: Võ Thành Trang, Phan Đặc Tường, Nguyễn Văn Dẻo và nhiều cán bộ các nơi về hoạt động tại địa phương Tân Sơn Nhì, của các đơn vị võ trang tuyên truyền xã do đồng chí Phạm Văn Phết, Phạm Văn Tất, Nguyễn Công Thủ và bộ đội Chi đội 12 do đồng chí Nguyễn Thược, Nguyễn Văn Hâm, Nguyễn Bá Bội chỉ huy, về địa phương đã tập trung tại đình Tân Sơn Nhì để phối hợp với lực lượng võ trang xã Tân Sơn Nhì đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất và các đồn bốt địch ở vùng phụ cận.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, một số sự kiện lịch sử địa phương liên quan đến đình Tân Sơn Nhì như: Tháng 8 năm 1955 đồng chí Nguyễn Văn Trung, Bí thư xã Tân Sơn Nhì đã lãnh đạo gần 1000 đồng bào trong xã và các xã lân cận tập trung tại đình Tân Sơn Nhì (Bà Quẹo) mít tinh đòi chính quyền Mỹ - Diệm phải thi hành Hiệp định Giơnevơ. Tên đội Cang chỉ huy bọn tề ấp, dân vệ đến đàn áp bị đồng bào dùng gậy gộc chống lại, trước khí thế của quần chúng bọn tề làng đã hoảng sợ bỏ chạy.
Ngày 1 tháng 5 năm 1957, Chi bộ xã do đồng chí Võ Thành Minh và Phạm Văn Tất lãnh đạo nhân dân tập trung tại đình Tân Sơn Nhì kéo xuống Sài Gòn biểu tình đòi “Dân sinh dân chủ”, thành lập Nghiệp đoàn.
Tháng 7 năm 1959, đồng chí Bành Văn Trân, Bí thư cùng Đãng viên Chi bộ xã Tân Sơn Nhì đã tập hợp thanh niên xã Tân Sơn Nhì tập trung tại đình, kéo ra chợ Bà Quẹo, tham gia biểu tình chống lại âm mưu bắt lính làm bia đỡ đạn cho địch, tên Quản Vinh phái lính đến đánh đập dã man làm một số thanh niên bị thương.
Năm 1960, Chi bộ xã do đồng chí Nguyễn Văn Đặng làm Bí thư tổ chức họp tại nhiều địa điểm, trong đó có đình Tân Sơn Nhì để chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng tại địa phương, vận động nhân dân vừa đấu tranh chống địch đàn áp, vừa xây dựng lực lượng võ trang. Phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng lên cao.
Đồng chí Nguyễn Văn Đặng Bí thư chi bộ xã Tân Sơn Nhì năm 1960
Từ năm 1960 đến năm 1964, phong trào vận động thanh niên tham gia kháng chiến nổ ra mạnh mẽ, hàng ngàn thanh niên trong xã gia nhập lực lượng giải phóng để tiếp tục chiến đấu chống lại kẻ thù và bọn tay sai bán nước và hy sinh 89 liệt sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đình Tân Sơn Nhì là một trong những địa điểm tập hợp thanh niên xã.
Sang năm 1965, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Văn Đặng, Bí thư và đồng chí Nguyễn Chí Phương, Đảng viên Chi bộ, thường sử dụng đình làm nơi hội họp, xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng và đào nhiều hầm bí mật để cất giấu vũ khí, nuôi giấu cán bộ bám trụ đánh địch và phối hợp với biệt động và bộ đội địa phương đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy nhiều máy bay các loại. Từ đó, liên tiếp từ tháng 7 năm 1966 một lực lượng nhỏ (thuộc biệt động F100) do anh hùng Phạm Văn Hai và Bành Văn Trân chỉ huy với sự hướng dẫn của nhân dân xã Tân Sơn Nhì đã cắt rào đột nhập vào sân bay Tân Sơn Nhất phá hủy nhiều máy bay địch.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Chi bộ xã Tân Sơn Nhì đã chọn đình làm địa điểm tập trung để vận động nhân dân đóng góp vật chất và tham gia tiếp tế, tải đạn, tải thương, nuôi quân và che giấu lực lượng như các má Võ Thị Năm, Võ Thị Giấy, Võ Thị Lá, Huỳnh Thị Tài, Nguyễn Thị Trực, Phan Thị Đại và các ông Huỳnh Văn Chành, Nguyễn Văn Chàng… đã tích cực tham gia. Đồng thời, nhân dân đã đưa một số bộ đội và du kích bị thương về đình chăm sóc, sau đó đưa đến các cơ sở cách mạng để chuyển họ ra căn cứ an toàn.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh (ngày 30 tháng 4 năm 1975), đình Tân Sơn Nhì là nơi tập hợp quần chúng tham gia chiến dịch, nơi dừng chân của bộ đội chủ lực đánh vào dinh lũy cuối cùng của kẻ thù. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ xã Tân Sơn Nhì, đêm 28 rạng 29 tháng 4 năm 1975 du kích phối hợp với quần chúng giành lấy chính quyền, đến 6 giờ sáng 30 tháng 4 năm 1975 xã Tân Sơn Nhì hoàn toàn giải phóng.
Trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1954 - 1975), cấp uỷ xã Tân Sơn Nhì như các đồng chí Võ Thành Trang, Phan Đặc Tường, Võ Hoàng Minh, Phạm Văn Tất, Bành Văn Trân, Nguyễn Văn Đặng… đã sử dụng đình Tân Sơn Nhì làm cơ sở hội họp, tập hợp, vận động quần chúng tham gia ủng hộ vật chất cho cách mạng và vận động thanh niên tham gia kháng chiến. Xã Tân Sơn Nhì được Nhà nước phong tặng xã anh hùng lực lượng võ trang nhân dân.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 30 tháng 4 năm 1975, đình Tân Sơn Nhì được chính quyền xã Tân Sơn Nhì sử dụng làm nơi tập họp nhân dân để tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và chính quyền cách mạng đối với những vùng mới giải phóng, phục vụ cho công tác giãn dân, đưa bà con về quê lập nghiệp, đi xây dựng vùng kinh tế mới trong những năm đầu giải phóng.
Đình Tân Sơn Nhì là ngôi đình của xã Tân Sơn Nhì, trước đây thuộc Tổng Dương Hòa Thượng. Ngày xưa, đình nằm trên trục lộ chính, con đường độc nhất từ thành phố Sài Gòn lên Cao Miên. Theo các bô lão lúc đó đình được xây dựng bằng vật liệu nhẹ nhưng chắc chắn vì đình nằm ở vị trí thuận lợi, nên thương lái buôn thường xuyên vào cúng bái xin phù hộ may mắn, sau đó họ tự nguyện đóng góp nhiều tiền của, vật chất, hiện vật thờ cúng, xây dựng và mở rộng ngôi đình. Trước đây ngôi đình làm bằng chất liệu gỗ, nhất là chánh điện có nhiều cột gỗ lim to, kèo, xà, con dấu đều làm bằng gỗ quý, đóng mộng, chạm trổ tinh vi: long, lân, quy, phụng rất nghệ thuật. Qua nhiều lần di dời và trùng tu, sữa chữa cấu trúc ngôi đình và hiện vật thờ cúng đã bê tông hóa…
Đình Tân Sơn Nhì ngày nay cách đường Tân Kỳ Tân Qúy khoảng 15 m, nhìn vào là thấy cổng Tam quan và Trụ sở làm việc của Ban điều hành khu phố thuộc phường Tân Sơn Nhì, bên trái là trường học, có tường rào cao ngăn cách, phía sau có sân khá rộng để cây cảnh, có tường rào ngăn cách với nhà dân, bên phải là đất trống được sử dụng làm lối đi chung cho một số hộ dân, nhà quay mặt về hướng đình, có lối đi thông hành địa dịch.
Nằm sát bên đường Tân Kỳ Tân Quý, là cổng đình, kiến trúc kiểu cổng tam quan. Mặt trước: đề chữ “Đình thần Tân Sơn Nhì – Bà Quẹo”. Mặt sau: đề chữ Hán: “Trung nghĩa môn”.
Dịch nghĩa: Cửa trung nghĩa
Hai bên cổng có câu đối, chữ Hán:
“Linh quang phổ chiếu bách tánh tứ quý bình an”.
“Thần uy phù hựu xã dân an cư lạc nghiệp”
Dịch nghĩa:
Ánh hào quang chiếu sáng cho bá tánh bốn mùa bình an
Uy nghi của thần phù hộ xã dân được an cư lạc nghiệp
Từ cổng đình vào khoảng 15 m là sân đình. Sân đình hẹp, bên phải là trường học có tường cao ngăn cách đình. Bên phải là nhà dân, có lối đi chung với đình.
Mặt tiền đình Tân Sơn Nhì
Võ ca quay về hướng Bắc, có 3 cửa ra vào. Võ ca có chiều rộng 15,8m dài 25,2m, nóc võ ca cao gần 8m, vách tường xây cao 2m. Phía ngoài cổng đi vào, vách Võ ca có tấm bình phong, chạm nổi hình Thần hổ oai phong, hai bên có câu đối:
“Huy chấn sơn lâm phù xã tắc”
“Linh thành lãnh vực hộ an bình”
Dịch nghĩa:
Dùng uy danh phù hộ dân làng
Khu vực dân cư được bình an
Võ ca lợp tôn, sườn bằng khung sắt, giữa võ ca có hai hàng cột xi măng chống đỡ, sân được tráng xi măng.
Võ ca có một sân khấu dài 4m, ngang 8m, cao 0,6m, sân khấu hướng về chánh điện dùng để hát tuồng trong dịp hội lễ.
Võ ca được giải thích là nơi ca múa khi hội lễ, theo lệ ở phần võ ca này được gọi là đàn xã tắc. Xã là thần đất đai, tắc là thần lúa nếp tức thần nông. Ông cha ta kính trọng thần xã tắc vì sơn hà gắn liền với thần xã tắc, trẻ em không được đến nơi đây quấy rầy, mỗi khi đến lễ Kỳ Yên hội đình tổ chức cho đoàn hát diễn, mặt sân khấu quay vào trong ngụ ý để thần xem, những bá tánh trong làng đều đến tham dự đầy đủ, có năm được mùa màng thường tổ chức mướn gánh hát bội, để cúng tạ Lễ Kỳ Yên và để cho dân làng có dịp thưởng thức thư giãn tinh thần sau một thời gian lao động nghề nông nặng nhọc. Khi tổ chức gánh hát trong làng giao các cụ lớn tuổi cầm chầu, đèn măng song (loại đèn có quai, tim vải... bơm khí nén để đưa dầu từ đáy bình lên tim) được huy động từ nhiều nơi đốt sáng rực cả ngôi đình và khu vực xung quanh tạo nên không khí vừa trang nghiêm vừa nói lên sự sung túc của dân làng, các cụ ông, cụ bà lớn tuổi mặc khăn đóng áo dài, guốc giông được thượng tọa nơi trang nghiêm nhất.
Hằng năm còn tổ chức trò lễ (ăn mặc theo kiểu học trò thời xưa, áo thụng, hia, mão, hai tay dâng chân đèn, trên đốt đèn cầy để dâng hương trà, rượu… cúng tế thần linh và tổ tiên), thường tổ chức vào lễ Kỳ Yên ngày 16 tháng 3 âm lịch, có múa mâm vàng, tổ chức đưa bè sang sông… cứ ba năm đáo lễ lại một lần có tổ chức hát bội.
Chính điện được ngăn bởi ba cửa sắt, cửa giữa chỉ mở cửa khi có hội hè, việc đi lại trong chính điện chủ yếu đi cửa bên trái chính điện. Chính điện có diện tích ngang 15,8 m dài 11,2 m. Hai bên hông chính điện có hai cửa trổ ra Đông và Tây lang. Chính điện có 4 trụ cột chống đỡ bằng xi măng, hai cột trước có đắp nổi hình long - lân - quy - phụng, hai cột sau có dắp nổi hình rồng chầu.
Chính điện
Trước cửa đình có câu đối, bằng chữ Hán:
“Linh quang chiếu việt địa dân phú quốc cường”.
“Thần uy chấn nam phương hộ quốc hựu dân”.
Dịch nghĩa:
Ánh hào quang chiếu đất Việt dân giàu nước mạnh
Thần uy hiển hách chấn phương Nam bảo hộ đất nước phù hộ dân làng
Trước cửa chính điện có câu đối bằng chữ Hán:
“Sơn trấn đình miễu hậu nhân tu bổ tồn vạn thế”
“Tân khai phúc điều tiền nhân công đức ký thiên thu”.
Dịch nghĩa:
Xây Đình Miếu nơi sơn trại, người hậu thế nên thường tu bổ để tồn tại muôn đời
Khai khẩn đất mới nên ghi nhớ công đức tiền nhân ngàn năm
Ở giữa chính điện, là Bàn thờ Hội đồng. Bàn thờ Hội đồng được xem như bàn hương án.
Bàn Thờ Hội đồng
Hai bên bàn thờ hội đồng là bàn thờ Đông hiến và Tây hiến.
Bàn thờ Đông Hiến
Bàn Thờ Tây Hiến
Cuối Chính điện là bàn thờ Thần trang trọng, cao 1,4 m, xây gạch, tô và cẩn gạch tráng men. Trên bàn thờ Thần có hai lư đồng, một chuông đồng, bình hoa theo đúng nghi thức của bàn hương án.
Bàn Thờ Thần
Bài vị Thần có câu đối bằng chữ Hán:
“Qúy Tỵ niên tam nguyệt thập ngũ nhật”
“Thiên thu khang khái độc quán quân”
“Vạn cổ anh hùng đô bát cốc”.
Dịch nghĩa: Ngày 15 tháng 3 năm Qúy Tỵ (1953)
Ngàn năm khang khái rộng lượng nên đi đầu
Xưa nay anh hùng do dân mà có
Trên trang thờ có câu đối bằng chữ Hán:
“Tứ tự an khang đà Thánh phù”
Nhứt môn thanh thái mông thần hữu”
Dịch nghĩa: Bốn mùa an lành nhờ thánh phù hộ
Nhà cửa thông thái mong thần giúp
Hai bên bàn thờ thần có hai hạt tiên quy chầu và cặp lộng hai bên, trước bàn thờ thần là cặp ngựa đứng chầu. Cửa khánh có rèn đỏ che hai bên là hai lộng thêu ngũ sắt (ngày trước theo lời các cụ thì đình Tân Sơn Nhì có sắc phong của vua Tự Đức ngũ niên (1852) sắc đựng trong hộp gỗ tròn sơn đỏ), sau này bị thất lạc.
Cặp hạt tiên quy chầu
Cặp ngựa đứng chầu
Hai bên bàn thờ Thần là bàn thờ Tả ban và bàn thờ Hữu ban, tức là hai bàn thờ của quan văn và quan võ theo hầu thần. Trên hai bàn này đều có bài vị, hương án. Trên bàn thờ có treo các tấm phướng, ghi:
“Hữu cầu tất ứng – Anh linh hiển hách – Mưa thuận gió hòa”.
Bàn Thờ Tả ban và Hữu ban
Phía trước bàn thờ Thần có đặt một bộ lỗ bộ hai bên để trên giá gỗ sơn đỏ đặt song song mỗi bên tám món (tổng cộng 16 món), đây là những món binh khí để các quan thần sử dụng. Đầu các lỗ bộ bằng đồng với những hình dáng khác nhau, nặng trên 2 kg, mỗi món đều mang ý nghĩa riêng:
Một cặp tay văn tay võ tượng trưng tài trí.
Một cặp phủ việt (Búa vàng) tượng trưng cho uy quyền.
Một cặp chùy gươm tượng trưng cho sức mạnh ân huệ.
Một cặp gậy đầu rồng tượng trưng cho triều đình.
Một cặp cờ tiết mào tượng trưng cho bổng lộc triều đình.
Kế bên bộ lỗ là hai con ngựa đỏ và trắng cao 1,6 m.
Bộ lỗ bộ
Hai bên Chính điện có hai cửa ra vào Tây lang và Đông lang là hai bàn thờ Tiền hiền và Hậu hiền.
Bàn thờ Tiền hiền
Bàn thờ Hậu hiền
Bên Tây lang có diện tích ngang 3 m, dài 9 m, có bàn thờ danh sách quý tiền hiền xã Tân Sơn Nhì, Tổng Dương Hòa Thượng tỉnh Gia Định, trong khánh thờ có ghi tên 49 vị, phía ngoài có câu đối bằng chữ Hán:
“Niệm tiền hiền khai cơ
Hựu hậu nhân lập nghiệp”
Dịch nghĩa:
Nên ghi nhớ công đức người khai khẩn
Phù hộ hậu thế an cư lập nghiệp
Bên Đông lang cũng có diện tích như Tây lang, có bàn thờ các chiến sĩ trận vong chiến đấu và hi sinh trên mảnh đất Tân Sơn Nhì. Tây lang để tiếp rước chiêu đãi khách khi có lễ hội. Đông lang có ghế, bàn dài dùng để hội họp.
Ngoài ra còn có một trống, một chiêng và một mõ treo trên giá gỗ đặt ở Đông lang và Tây lang, chiêng bằng đồng đánh lên cùng với trống khi có lễ hội.
Chiêng, trống, mõ
Chánh điện lợp ngói âm dương, sườn bằng gỗ, cột xi măng, nền lót gạch bông. Nóc chạm hình rồng bằng sành, bốn đầu đao ở bốn mái đình có hình Kỳ Lân bằng sành, thường các đình dùng các hình tượng tứ linh là long, lân, quy, phụng để chạm trổ các nơi trong đình.
Phía sau Chánh diện ngăn bởi một bức tường là Hậu sở. Hậu sở có diện tích ngang 7 m, dài 16 m, chia làm hai phòng, một phòng dùng làm kho, phòng còn lại dùng làm nhà bếp.
Cạnh Đông lang có một Miếu ngũ hành với diện tích dài 7,8 m, ngang 4,2 m. Chính diện của Miếu là bàn thờ bằng gạch tráng men, với đầy đủ hiện vật thờ cúng như lư đèn, dĩa, bình hoa, Miếu thờ tượng 5 Bà được gọi là Ngũ Hành Nương Nương, với các y phục xanh, đỏ, trắng, tím, vàng tượng trưng cho kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Theo kinh dịch thì ngũ sắc này biểu tượng cho yếu tố cấu thành vũ trụ. Do đó, thờ Ngũ Hành Nương Nương có nghĩa là thờ trời đất.
Trước Miếu ở chính giữa có đề chữ Hán: (“Ngũ Hành Miếu”). Hai bên cửa ra vào có câu đối bằng chữ Hán:
“Miếu trấn thịnh chỉ chúng tín thêm bách phúc”
“Ngũ hành vượng địa cư dân nạp thiền tường”.
Dịch nghĩa: Miếu xây trên đất lành, bá tánh thêm trăm phước
Cư dân sồng trên đất sung túc, sẽ gặp nhiều may mắn
Ở trên bàn thờ có tấm phướng đề chữ Hán: “Quốc thái dân an”.
Dịch nghĩa: Quốc gia thông thái, nhân dân an lành
Phía Tây lang có một Miếu thờ Ông, có diện tích dài 10,5 m, ngang 5,6 m, bên trong thờ một bài vị lớn đề thờ “Thần”, hai bên có hai bài vị Tả ban, Hữu ban. Bệ thờ bằng gạch tráng men. Hai bên bệ có hai lộng ngũ sắc, có đặt hai bộ lỗ nhỏ 16 món, đây là Miếu thờ Ông để tưởng nhớ các vị tiền nhân có công khai khẩn lập ấp. Miếu được xây dựng bằng bê tông cốt sắt, mái lợp tôn, có sân rộng.
Đình Tân Sơn Nhì do những dân làng xã Tân Sơn Nhì xây dựng trong quá trình hình thành làng, xã. Từ ngày xây dựng đến nay, đình luôn là nơi nhân dân trong xã đến để hội hợp, sinh hoạt và thực hiện các nghi lễ dân gian theo phong tục truyền thống của người Việt.
Các ngày lễ lớn hàng năm gồm:
- Lễ Kỳ Yên được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch. Đây là ngày lễ trọng đại, lễ lớn nhất được tổ chức long trọng, có học trò lễ cùng chánh bồi bái cùng nhạc lễ dâng bái thần.
Trò lễ cúng Kỳ Yên
Trước đây, Lễ Kỳ Yên có cử hành lễ Hạ Điền, tức là lễ bắt đầu vụ mùa trong năm hay còn gọi là lễ cúng Thần Nông, nhưng nay không còn.
Ngày túc yết tức ngày đầu của lễ, hội Đình nhóm lại ban chiều có mời nhà sư đến tụng kinh cầu siêu đúng theo tục lệ, chọn giờ lành tức lựa các con nước lớn, biểu hiện đem lại hưng thịnh để làm khởi lễ, đầu tiên đưa long xa rước sắc phong về Đình (thường được gởi ở chùa). Theo Ban Trị sự Đình Tân Sơn Nhì khi xưa có sắc phong, sau khi có lệnh tiêu thổ kháng chiến của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam bộ. Hội Đình đem sắc phong đi gởi rồi bị thất lạc cho đến nay vẫn chưa tìm thấy.
Ngày thứ nhì của lễ Kỳ Yên gọi là Đoàn cả, để thực hiện nghi lễ, Chánh tế, Bồi tế với trang phục khăn đống, áo dài chỉnh tề trước bàn thờ. Vật tế thần là một con heo làm sạch nhưng chưa luộc.
Phẩm vật cúng Kỳ Yên
Các vị Thi lập (trong Ban Qúy tế) đứng hai bên bàn hầu Chánh tế, Bồi tế tựu vị, đánh trống, chiêng gõ, kèn thổi theo điệu nhạc cung nghinh, học trò lễ đội mão tú tài, múa chân theo lối chữ tâm, tay dâng rượu theo lời tế của Chánh tế, ngày này Chánh tế đóng vai trò rất quan trọng, nhất cử nhất động đều phải nghiêm túc.
Nghi lễ đánh trống chiêng tại lễ Kỳ Yên
Ngày hôm sau là lệ xây chầu và hát bội, đình Tân Sơn Nhì có tổ chức lệ này, đây là lệ đặc trưng của ngày lễ Kỳ Yên.
Hát bội “Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ”
Lễ sau cùng của lễ Kỳ Yên là cúng Tiền hiền, Hậu hiền, các vị Tiền hiền có công khai khẩn, Hậu hiền khai cơ, là những bậc tiền bối có công đóng góp và giữ gìn ngôi Đình từ xưa cho đến nay để con cháu lấy đó làm nơi nương tựa cho tinh thần. Lệ cúng Tiền hiền, Hậu hiền mang ý nghĩa văn hóa “Báo bản tương nguyện” tức là báo đáp cái gốc, tưởng nhớ cái nguồn. Đình Tân Sơn Nhì có bàn thờ anh hùng liệt sĩ hay còn gọi là bàn thờ chiến sĩ trận vong.
Lệ cúng Tiền hiền tại đình Tân Sơn Nhì
Ngày lễ Kỳ Yên, cúng Tiền hiền, Hậu hiền, cúng chiến sĩ trận vong là biểu hiện tình cảm “Uống nước nhớ nguồn” của Hội đình Tân Sơn Nhì cùng bá tánh, nhằm giáo dục lớp trẻ có ý thức trách nhiệm và bổn phận đối với những người đã đem xương máu giành lấy hòa bình, ấm no cho dân tộc.
Chi hội di sản văn hóa quận Tân Phú dâng hương cúng lễ Kỳ Yên
Hội đình các nơi đến dâng hương cúng lễ Kỳ yên đình Tân Sơn Nhì
Lễ Vía Bà Ngũ Hành ngày 16 tháng 2 âm lịch.
Lễ Cúng Ông vào ngày 16 tháng 8 âm lịch.
Đặc biệt ngày 27 tháng 7 hằng năm, Hội đình tổ chức cúng các chiến sĩ trận vong được thờ trong đình.
Nghi thức cúng đình cũng giống như những ngôi đình khác ở Nam bộ, những ngày lễ lớn được tổ chức tại đình với hàng trăm bá tánh, trong đó có chính quyền, đoàn thể địa phương đến dự.
Các ông Hội trưởng đình Tân Sơn Nhì qua các thời kỳ: Mai Văn Như; Huỳnh Văn Khởi; Nguyễn Văn Trung; Huỳnh Văn Chàng; Nguyễn Văn Chành; Nguyễn Ảnh Tư; Nguyễn Văn Lành; Nguyễn Văn Giất; Nguyễn Đình Nam; Lương Hiển; Nguyễn Văn Tý; Lý Thiếu Lương; Nguyễn Văn Hai.
Đình Tân Sơn Nhì hiện còn một số hiện vật như sau:
- 16 món binh khí (Bộ lỗ bộ lớn - cao 2,2 m)
- 01 cặp ngựa bằng thạch cao, chiều cao 1,6 m.
- 01 cặp hạt đứng trên quy bằng thạch cao, chiều cao 2,6 m.
- 01 trống, đường kính 50 cm.
- 01 mõ, đường kính 32 cm, dài 1,32 m.
- 01 chiêng, đường kính 51 cm.
- 01 cặp tàn lộng lớn, chiều cao 2 m.
- 01 kiệu võng, chiều cao 1,35m, dài 2,4 m.
- 08 bộ lư hương, chiều cao 75 cm, đèn dài 65 cm.
- 16 món binh khí (Bộ lỗ bộ nhỏ, chiều cao 1,8 m.
- 01 cặp lộng nhỏ, chiều cao 1,6 m.
Qua một số nhân chứng kể lại, đình Tân Sơn Nhì được hình thành từ năm 1852 (Tự Đức ngũ niên), ngôi Đình vẫn giữ lại được các đường nét cấu trúc tổng thể của ngôi đình Nam bộ: Cổng tam quan, bia thần hổ, thần nông, võ ca, chánh điện và hậu sở…
Hàng năm, ngoài lễ cúng Kỳ Yên ngày 16 tháng 3 âm lịch, còn có lễ cúng Vía Bà Ngũ Hành 16 tháng 3 âm lịch, cúng Ông ngày 16 tháng 8 âm lịch với đầy đủ cung cách được bà con trong làng xóm tham gia đông đủ.
Trung tâm Bảo tồn di tích thành phố tổ chức tọa đàm, lập hồ sơ khoa học di tích đình Tân Sơn Nhì
Điểm nổi bật ở đình Tân Sơn Nhì là các sự kiện lịch sử liên quan, diễn ra liên tục từ phong trào của các sĩ phu yêu nước trước khi có Đảng cho đến suốt hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược: Trong đó, đình luôn được Chi bộ xã chọn làm cơ sở, làm nơi hội họp, tập họp quần chúng cách mạng để biểu tình, đấu tranh với địch, nơi quyên góp vật chất cho cách mạng và là nơi ém quân, nuôi dấu cán bộ, thương binh về hoạt động tại địa phương, góp phần vào thành tích chung của xã Tân Sơn Nhì – Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Với những giá trị lịch sử về di tích, đình Tân Sơn Nhì đã được Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định số 5516/QĐ-UBND ngày 20 tháng 10 năm 2016 công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố.
Văn Chung